Hướng tới xây dựng mô hình “Trường trong doanh nghiệp”
Trong nước 05/06/2018 15:20 Theo dõi Congthuong.vn trên
Thị trường Nhật Bản tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam sang làm việc với đa dạng ngành nghề |
Năm 2017 có gần 135 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài
Theo số liệu của Bộ LĐTB&XH, tính chung trong năm 2017, cả nước đã giải quyết việc làm cho trên 1.633 nghìn người, đạt 102,1% kế hoạch, trong đó tạo việc làm trong nước cho 1.505 nghìn người, đạt 100,7% kế hoạch. Chất lượng việc làm dần được cải thiện, từng bước chính thức hóa việc làm phi chính thức. Hiện nay, cả nước có 38,6% số người làm việc trong khu vực nông lâm nghiệp, 26,7% trong khu vực công nghiệp, xây dựng và 34,7% trong khu vực dịch vụ.
Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm có xu hướng giảm dần qua các quý. Số người thất nghiệp trong quý I/2018 là 1,1 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp chung của toàn quốc quý I/2018 khoảng 2,01% (tỷ lệ này của quý I/2017 là 2,30%). Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên là trên 7%. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản quý I/2018 ước tính là 56,8%, trong đó khu vực thành thị là 48,3%; khu vực nông thôn là 63,8%.
Về việc đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, theo Bộ LĐTB&XH, năm 2017 cả nước đưa đi được gần 135 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài, vượt 28,3% so với kế hoạch năm và bằng 106,7% so với tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài trong năm 2016. Đây cũng là năm thứ tư liên tiếp số lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài vượt mức 100.000 lao động/năm. Đặc biệt, thị trường Nhật Bản có sự tăng trưởng vượt bậc với 54,5 nghìn lao động, Đài Loan gần 67 nghìn lao động, Hàn Quốc 5 nghìn lao động; Ả rập - Xê út gần 4 nghìn lao động.
Theo Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH Đào Ngọc Dung, trong thời gian vừa qua, Bộ đã đẩy mạnh hợp tác quốc tế, xây dựng chính sách thông qua tăng cường xúc tiến trao đổi thông tin ở các cấp với cơ quan hữu quan của các nước tiếp nhận lao động; đàm phán và ký kết các Thỏa thuận hợp tác lao động với những nước chưa ký Hiệp định/Bản Ghi nhớ về hợp tác lao động với Việt Nam. Tăng cường xúc tiến quảng bá hình ảnh của lao động Việt Nam thông qua các chương trình hợp tác đang triển khai tốt và được các cơ quan truyền thông, dân chúng nước sở tại quan tâm và đánh giá cao như chương trình phái cử điều dưỡng viên, hộ lý Việt Nam đi làm việc tại Nhật Bản; điều dưỡng viên Việt Nam đi học tập và làm việc tại Cộng hòa Liên bang Đức….
Về công tác tăng cường quản lý hoạt động của các DN XK lao động, Bộ LĐTB&XH đã ban hành các quy định cụ thể về mức chi phí đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Thông tin cụ thể về chi phí để đi làm việc theo các hợp đồng được Bộ thẩm định cũng đã được đăng tải và cập nhật thường xuyên trên trang thông tin điện tử của Cục Quản lý lao động ngoài nước thuộc Bộ. Đồng thời, Bộ LĐTB&XH thường xuyên thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động của các DN để kịp thời phát hiện và xử lý vi phạm, thu hồi giấy phép hoạt động đối với những DN không đảm bảo duy trì điều kiện tối thiểu để được hoạt động theo quy định của pháp luật hoặc những DN hoạt động kém hiệu quả, những DN vi phạm đến mức phải xử lý thu hồi giấy phép theo quy định của pháp luật. Từ đầu năm 2018 đến nay, Bộ đã tiến hành thanh tra 5 DN, tổng số tiền xử phạt là 490 triệu đồng.
Tập trung nhiều giải pháp nâng cao chất lượng lao động
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, thời gian tới, Bộ sẽ tập trung thực hiện một loạt giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động và giải quyết việc làm. Cụ thể: Hình thành hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp có sự phân tầng, đào tạo những nghề mũi nhọn, đáp ứng nhân lực chất lượng cao cho các DN có công nghệ tiến tiến; đồng thời có những trường có những nghề phổ biến, đào tạo nhân lực có tính đại trà cho các DN trong cả nước.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung |
Khuyến khích hình thành các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các trung tâm đào tạo tại DN. Nâng cao chất lượng đào tạo trên cơ sở đổi mới, nâng cao chất lượng các yếu tố bảo đảm, như đội ngũ giáo viên, đầu tư đồng bộ thiết bị đào tạo hướng tới phù hợp với công nghệ sản xuất của DN; đổi mới chương trình đào tạo theo hướng linh hoạt, gắn với định hướng sử dụng kỹ năng lao động của DN; đổi mới phương thức theo hướng đào tạo theo tín chỉ, nhằm đáp ứng nhu cầu học suốt đời của người lao động.
Xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ giữa đào tạo nghề nghiệp với DN và thị trường lao động ở các cấp để bảo đảm cho các hoạt động của hệ thống giáo dục nghề nghiệp hướng vào việc đáp ứng nhu cầu của từng ngành, từng lĩnh vực.
Và một trong những giải pháp có tính đột phá là đưa DN trở thành một trong những chủ thể tham gia đào tạo nghề nghiệp. DN chủ động, tích cực tham gia vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp với vai trò là nhà đầu tư và đồng thời cũng là đối tác khách hàng cho chính “sản phẩm” của mình. Xây dựng mô hình “Trường trong DN” - mô hình được thực hiện từ lâu ở nhiều nước công nghiệp…