Chính sách công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản chỉ được nhắc đến một cách phổ biến từ những năm 1960, nhưng trong thực tế, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, Nhật Bản đã quan tâm đến phát triển nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp - tiền thân của công nghiệp hỗ trợ và ngay sau khi đại chiến thứ giới lần thứ II, chính phủ Nhật Bản đã sớm có các chính sách về công nghiệp hỗ trợ để từng bước làm chủ sản xuất và công nghệ. Những chính sách này được nhìn nhận theo hai luồng quan điểm khác nhau trên thế giới. Trong khi nhiều nước châu Á đánh giá cao và coi đó là điểm sáng để học hỏi thì các nước phát triển, đặc biệt là Hoa Kỳ lại cho rằng đây thực chất là các biện pháp bảo hộ cho sản xuất trong nước mà Nhật Bản đã tận dụng khi các cam kết về tự do thương mại chưa thịnh hành như ngày nay.
Chính sách công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản chỉ được nhắc đến một cách phổ biến từ những năm 1960, nhưng trong thực tế, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, Nhật Bản đã quan tâm đến phát triển nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp - tiền thân của công nghiệp hỗ trợ và ngay sau khi đại chiến thứ giới lần thứ II, chính phủ Nhật Bản đã sớm có các chính sách về công nghiệp hỗ trợ để từng bước làm chủ sản xuất và công nghệ. Những chính sách này được nhìn nhận theo hai luồng quan điểm khác nhau trên thế giới. Trong khi nhiều nước châu Á đánh giá cao và coi đó là điểm sáng để học hỏi thì các nước phát triển, đặc biệt là Hoa Kỳ lại cho rằng đây thực chất là các biện pháp bảo hộ cho sản xuất trong nước mà Nhật Bản đã tận dụng khi các cam kết về tự do thương mại chưa thịnh hành như ngày nay.
Luồng quan điểm này đặt ra những nghi vấn về việc liệu các kinh nghiệm này có thể áp dụng cho Việt Nam trong bối cảnh tham gia và thực hiện nhiều cam kết quốc tế về tự do hóa thương mại hiện nay hay không? Để có câu trả lời cho vấn đề này, chúng ta cần bóc tách bản chất và điều kiện thực hiện của từng nhóm chính sách chủ yếu của Nhật Bản trong lĩnh vực này.
Chính sách công nghiệp nói chung và công nghiệp hỗ trợ nói riêng của Nhật Bản được thực hiện chủ yếu bởi Bộ Thương mại quốc tế và Công nghiệp Nhật Bản (hay còn gọi là Bộ Công Thương Nhật Bản - MITI), chia thành 5 nhóm chính sách lớn gồm:
(1) Các chính sách tác động đến cơ cấu công nghiệp bằng cách bảo vệ các ngành đang phát triển thông qua các biện pháp khuyến khích phát triển và điều chỉnh các ngành đang suy giảm.
(2) Chính sách khắc phục các lỗi của thị trường do thị trường không hoàn hảo và thông tin bất đối xứng, thông qua việc hướng dẫn phân bổ nguồn lực bằng cách cung cấp thông tin chính xác; trợ cấp và hệ thống thuế.
(3) Các chính sách nhằm can thiệp chính thức vào các tổ chức công nghiệp tư nhân. Ví dụ, các chính sách tìm cách can thiệp trực tiếp vào cơ cấu cạnh tranh và phân bổ nguồn lực trong các ngành, thông qua các cartel.
(4) Các chính sách được áp dụng không dựa trên cơ sở kinh tế mà chủ yếu dựa trên các yêu cầu chính trị. Ví dụ tự nguyện hạn chế xuất khẩu và các thỏa thuận đa phương nhằm giải quyết các mâu thuẫn với các quốc gia khác.
5) Ngoài ra, còn có các chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách tiêu chuẩn hóa phân phối thu nhập, chính sách kiểm soát ô nhiễm, chính sách khu vực, chính sách khuyến khích R&D, chính sách cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Một số điều kiện tiên quyết cho sự thành công của chính sách công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản Từ những phân tích ở trên có thể thấy, từ chính sách “nhắm mục tiêu” trúng đích, Nhật Bản đã tập trung phát hiện, nuôi dưỡng và phát triển các ngành công nghiệp có khả năng bắt kịp quốc tế và những ngành công nghiệp có khả năng dẫn đầu, để tạo ra vị thế cường quốc về công nghiệp như hiện nay. Sự điều chỉnh linh hoạt từ cơ chế bảo hộ sang định hướng, tăng quy mô để cạnh tranh quốc tế khi tự do hóa thương mại và liên tục đổi mới về công nghệ cũng như hệ sinh thái khởi nghiệp sôi động, bền vững đã tạo ra động lực cho sự phát triển không ngừng của lĩnh vực công nghiệp. Có thể thấy, cả 5 nhóm chính sách trên đều có thể áp dụng cho các quốc gia muốn phát triển công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ, tuy nhiên, sự thành công của chính sách không chỉ đơn thuần nằm ở nội dung và đối tượng của chính sách, mà phải dựa trên những điều kiện cần thiết như sau: - Một khu vực tư nhân trong nước có khả năng quản lý hiệu quả các dự án phức tạp và quy mô lớn, đủ để hấp thụ các định hướng tham vọng của Chính phủ cũng như những ưu đãi lớn - Một khu vực tư nhân sẵn sàng hợp tác với chính phủ trong việc theo đuổi mục tiêu chung của phát triển công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ. - Năng lực của các cơ quan chức năng đủ mạnh và cơ chế phối hợp công-tư để đánh giá khách quan các Kế hoạch đầu tư và sản xuất lớn.. - Ngoài ra, chính sách công nghiệp đòi hỏi khả thể chế mạn, đặc biệt, có thể bổ sung cho cơ chế thị trường và duy trì quan hệ đối tác công-tư tốt: bao gồm khung pháp lý cho hoạt động kinh tế, cơ chế cam kết hạn chế các hành động tùy ý của chính phủ hoặc khu vực tư nhân - Một chương trình hiệu quả để chia sẻ thông tin và xây dựng sự đồng thuận giữa các cơ quan Nhà nước và khu vực tư nhân. Những điều kiện này không tự nhiên xuất hiện, mà đều là nỗ lực của cải cách thể chế và phát triển hệ sinh thái, môi trường kinh doanh. Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, hoàn toàn có thể tạo ra các điều kiện trên, nếu Chính phủ kiên trì với phương châm “kiến tạo, phục vụ”, nhắm trúng đích các ngành có lợi thế cạnh tranh và có cơ hội phát triển để có định hướng và chính sách phát triển phù hợp, dựa trên nguồn lực khả thi và kế thừa những thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như kinh nghiệm của các nước đi trước trong phát triển công nghiệp hỗ trợ. |