CôngThương - Nhiều mô hình tổng thầu EPC thành công
Mô hình tổng thầu EPC thành công đầu tiên của các đơn vị trong nước phải kể tới đó là dự án xây dựng Nhà máy Xi măng Sông Thao (Phú Thọ) công suất 1 triệu tấn/năm. Đây là dự án đầu tiên tại Việt Nam được tổ chức thực hiện theo mô hình tổng thầu EPC.
Ông Phạm Quang Nhân - Phó Tổng giám đốc LILAMA - cho biết, Nhà máy Xi măng Sông Thao địa chỉ ứng dụng đầu tiên của dự án khoa học - công nghệ (KHCN), tổng trọng lượng thiết bị, kết cấu thép do Việt Nam chế tạo đạt 5.942/8.353,2 tấn, chiếm 71,13% tổng khối lượng thiết bị nhà máy và 40% giá trị. Đây cũng là lần đầu tiên Việt Nam đã chế tạo một số thiết bị chính trong dây chuyền sản xuất xi măng lò quay 2.500 tấn clinker/ngày.
Không chỉ với nhà máy xi măng, hiện LILAMA đã nghiên cứu, thiết kế và chế tạo thiết bị đồng bộ cho nhà máy nhiệt điện than công suất 600MW. Đề án được thực hiện trên cơ sở điều chỉnh từ dự án công suất 300MW của Nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng 3. Dự kiến, các kết quả nghiên cứu sau khi hoàn thành sẽ triển khai, ứng dụng vào Nhà máy Nhiệt điện Quỳnh Lập 1 (Nghệ An) và Long Phú 2 (Sóc Trăng), với mục tiêu đề ra là đạt tỷ lệ nội địa hóa khoảng 40%.
Cần nhất là vốn...
Điều các DN cơ khí trong nước cần nhất hiện nay là vốn. “Tôi xin hỏi, để đầu tư một nhà máy cơ khí lớn, hiện đại bây giờ cần khoảng 2.000 tỷ đồng, với lãi suất 24% như hiện nay thì trong 3-5 năm, giá trị đầu tư đã tăng gấp đôi. Như vậy, thử hỏi DN nào dám đầu tư nếu không có ưu đãi về vốn?” - ông Nguyễn Văn Thụ - Chủ tịch Hiệp hội DN cơ khí đặt câu hỏi.
Cùng quan điểm này, tiến sĩ Nguyễn Chỉ Sáng - Viện trưởng NARIME cũng chỉ ra những khó khăn của viện khi thiếu vốn. Thứ nhất, vốn cho các dự án lớn. Với riêng nhà máy nhiệt điện, việc huy động vốn đầu tư rất lớn nên tâm lý chủ đầu tư thường thích làm việc với các đối tác nước ngoài để họ thu xếp vốn trọn gói từ thiết kế, mua sắm thiết bị đến xây dựng. Bên cạnh đó, trong nguyên tắc chọn thầu, một trong những ưu tiên hiện nay vẫn là giá rẻ. Đây lại chính là điểm mạnh của các nhà thầu Trung Quốc ,vì họ được hưởng ưu đãi xuất khẩu của Chính phủ Trung Quốc, đồng thời lại được hưởng chính sách thuế ưu tiên nhập khẩu thiết bị của Việt Nam. Trong cuộc đua này, rõ ràng các DN cơ khí Việt Nam bị “thất thế” vì phải chịu nhiều khoản thuế và lãi suất vay thương mại không ưu đãi. Thứ hai, là vốn cho việc thực hiện theo cơ chế tự chủ theo Nghị định 115 của Chính phủ. Mặc dù là một trong những viện đi đầu thực hiện theo cơ chế này, nhưng đến nay vẫn chưa tới đích bởi khó nhất là xoay xở vốn cho các dự án của viện. Thực tế, viện đi vay vốn ngân hàng rất khó, thậm chí khoảng trên 20 cán bộ của viện còn đem tài sản cá nhân ra thế chấp để vay tiền phục vụ cho nghiên cứu đề tài KHCN - ông Sáng bày tỏ.
... và liên kết để tăng tỷ lệ nội địa hóa
Tiến sĩ Nguyễn Chỉ Sáng tính toán, từ nay đến năm 2030, chúng ta đầu tư khoảng 90 tỷ USD xây dựng các nhà máy nhiệt điện. Nếu ngành Cơ khí trong nước có thể tạo ra 27 tỷ USD từ công tác chế tạo cung cấp dây chuyền thiết bị phụ. Tính trong vòng 19 năm, mỗi năm có thể góp phần giảm nhập siêu khoảng 1,4 tỷ USD. Đây là con số rất lớn, góp phần giảm nhập siêu của cả nước. Nhưng để đạt được con số này, điều cần thiết là các DN cơ khí trong nước phải biết hợp tác, liên kết để cùng làm, cùng bổ sung cho nhau trong các dự án lớn. Tuy nhiên, liên kết các DN cơ khí trong nước còn là một bài toán khó, đòi hỏi tinh thần đoàn kết và vì lợi ích chung rất cao của các DN.
Ông Nguyễn Văn Thụ nhận định, trong nước chưa có đơn vị nào đủ năng lực thiết kế và quản lý đồng bộ dự án nhà máy nhiệt điện. Vì vậy, để tạo nên sức mạnh, các DN phải biết liên kết, bổ sung cho nhau và có một “thủ lĩnh” đứng ra làm đầu mối. Một giải pháp đang được đưa ra để bàn bạc đó là hình thành "Liên danh nhà thầu" từ 7 đơn vị trong nước.
Bằng chứng cho sự liên kết bền vững được thể hiện thông qua việc 7 đơn vị này đã cùng “chắp bút” và đồng lòng trong các công văn, kiến nghị gửi lên Chính phủ đề xuất các giải pháp gỡ rối cho ngành Cơ khí.