Tạo thuận lợi cho thương mại hàng hóa vì một ASEAN hội nhập hơn
Quốc tế 18/10/2017 09:00 Theo dõi Congthuong.vn trên
Thuận lợi hóa thương mại của ASEAN cần phải cố gắng giảm thiểu các tổn thương này. Tuy nhiên, việc thiếu một khuôn khổ thể chế siêu quốc gia như EU nên tiến triển chỉ có thể đạt được từng bước và dựa vào vào sự đồng thuận giữa các thành viên.
Các vấn đề thuận lợi hóa thương mại then chốt được xác định trọng tâm gồm (i) quy tắc xuất xứ (ROO); (ii) minh bạch hóa của các NTM; (iii) đơn giản hóa. Trong đó về khía cạnh quy tắc xuất xứ, các chuyên gia cho rằng sự mở rộng hiện nay của “hiệu ứng bát mỳ” trong khu vực đặt ra nguy cơ tiềm tàng để phát triển cân bằng, ví dụ Khu vực Mekong Mở rộng cần phải được giải quyết bằng cách kết hợp chiến lược tiếp cận thị trường ưu đãi với quy tắc xuất xứ toàn khu vực. Về khía cạnh minh bạch hóa NTM, dựa vào các dữ liệu phân tích gần đây của Hội nghị Liên Hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) và Viện Nghiên cứu kinh tế về ASEAN và Đông Á (ERIA), Ban Thư ký ASEAN đã có các phương tiện để đánh giá sự minh bạch của NTM ở cấp quốc gia. Vấn đề chủ yếu là phải thúc đẩy sự minh bạch, dù ở cấp khu vực hay đa phương, là một trong những động lực của tăng trưởng. Việc đơn giản hóa các NTM không được coi là vấn đề đàm phán thương mại vì NTM không phải là công cụ chính sách thương mại thuần túy.
Thuận lợi hóa thương mại không chỉ cắt giảm các chi phí giao dịch qua biên giới mà còn giảm thiểu các tổn thương của cấu trúc sản xuất khu vực đối với các cú sốc kinh tế và tăng cường các cơ chế phối hợp, tự vệ và ứng phó chính sách, nhất là các lĩnh vực then chốt của ROO và NTM.
Các Quy tắc xuất xứ của ASEAN “đơn giản về giấy tờ, phức tạp trong thực thi”. ROO trong Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) có cấu trúc tương đối đơn giản so với các hệ thống khác như Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) hoặc khu vực đồng euro. ROO của ATIGA cơ bản dựa vào hàm lượng giá trị khu vực và trong một số trường hợp các nhà nhập khẩu có thể lựa chọn quy tắc để sử dụng trong số hai quy tắc thay thế, như hàm lượng giá trị hoặc chuyển đổi mã số hàng hóa. Mức hợp lý nhất của các công cụ này là lựa chọn giữa 40% hàm lượng giá trị khu vực và chuyển đổi mã số hàng hóa (khoảng 1/3 tổng sản phẩm) hoặc thay đổi chuyển đổi nhóm hàng hóa (6% tổng sản phẩm). Mặc dù quy tắc có vẻ đơn giản, ROO của ATIGA dường như có hiệu ứng hạn chế thương mại đáng kể với giá trị tương đối của các nghiên cứu cho thấy khoảng 3,4%, có nghĩa là ROO hạn chế thương mại của ASEAN bằng một con số tương đương với giá trị 1/4 của thuế quan MFN. Hiệu ứng này có sự khác biệt giữa các ngành và tác động khác nhau giữa các nước thành viên ASEAN. Những ngành bị ảnh hưởng nhỏ như điện tử hoặc thiết bị có thuế MFN thấp, và có tác động lớn đến các ngành như dầu mỡ (6,7%), sản phẩm da (9%), dệt may (8,3%) hoặc giày dép (12,7%).
Còn về NTM, trong khi nhiều NTM xuất phát từ các mục tiêu chính sách thương mại (như an toàn thực phẩm hoặc bảo vệ môi trường), thì cũng có thể được sử dụng như công cụ của chính sách thương mại, ngay cả các NTM phù hợp về pháp lý thì các mục tiêu phi thương mại có thể hạn chế hoặc gây méo mó thương mại quốc tế. Vì vậy, NTM là nội dung cốt lõi trong chương trình nghị sự về thuận lợi hóa thương mại của ASEAN. Các chi phí mà NTM đặt ra cho các doanh nghiệp được xếp theo ba loại: thực thi, nguồn lực và thông qua áp dụng. Thứ nhất, chi phí thực thi liên quan đến nỗ lực mà các doanh nghiệp phải chứng minh sự phù hợp với NTM vì các chi phí này khá lớn, ảnh hưởng nhiều tới các doanh nghiệp nhỏ hơn với doanh nghiệp lớn. Chung cũng tác động nặng nề hơn tới các doanh nghiệp nước ngoài do các thủ tục nội bộ trong nước sở tại, mặc dù các doanh nghiệp nước ngoài có xu hướng dành nhiều chi phí cho hoạt động tham vấn pháp lý. Vì vậy, thông qua chi phí thực thi, NTM có thể tác động khác nhau giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài cũng như giữa doanh nghiệp lớn và nhỏ. Thứ hai, chi phí nguồn lực được hiểu là chuyển từ nguồn lực trung gian có mức độ thấp lên mức độ cao nhằm đáp ứng tiêu chuẩn NTM. Tiêu chuẩn có thể có hiệu ứng khác nhau phụ thuộc vào sản phẩm và người sử dụng. Thứ ba, chi phí thông qua áp dụng liên quan đến thay đổi thiết bị vốn cần thiết để đáp ứng tiêu chuẩn NTM. Ví dụ, sản phẩm bơ sữa buộc người nông dân phải mua thiết bị đắt đỏ nhằm đảm bảo sữa không bị hỏng do nhiễm khuẩn trước khi được bơm vào các thùng. Đầu tư cho các thiết bị cũng đòi hỏi nâng cấp kỹ năng của người vận hành. Chi phí thông qua áp dụng thường là chi phí cố định và vì vậy, tác động đến các doanh nghiệp nhỏ nhiều hơn so với các doanh nghiệp lớn. Các chi phí này trở nên phức tạp khi NTM thiếu sự minh bạch, vì sự không chắc chắn hoặc thiếu hiểu biết có thể dẫn tới quyết định kinh doanh tốn kém, nhất là khi lựa chọn máy móc và thiết bị. Ngoài các lợi ích trực tiếp của thuận lợi hóa thương mại, sự minh bạch trong NTM là sự bảo đảm tốt nhất cho các doanh nghiệp…
Để giải quyết các vấn đề vướng mắc hiện nay liên quan đến quy tắc xuất xứ và NTM nhằm tạo thuận lợi thương mại trong ASEAN, các chuyên gia kinh tế đã đề xuất thiết lập nhóm đặc trách về quy tắc xuất xứ ở cấp ASEAN để rà soát lại “bát mỳ” và đơn giản hóa các quy tắc trong các hiệp định thương mại tự do của ASEAN, đồng thời tính đến sự liên kết giữa chiến lược tiếp cận thị trường khu vực với thị trường các nước phát triển, đảm bảo sự phát triển cân bằng. Bên cạnh đó, thiết lập một cơ chế thể chế tại Ban thư ký ASEAN thúc đẩy sự minh bạch của NTM thông qua tập hợp dữ liệu, đánh giá NTM trên cơ sở các phương pháp đã nghiên cứu. Đặc biệt, các cơ quan giám sát ở tất cả các nước thành viên ASEAN cần cải thiện các quy định chủ chốt liên quan đến hoạt động giúp doanh nghiệp thực sự được hưởng lợi ích từ tiến trình hội nhập khu vực ASEAN.