Vissan - doanh nghiệp nhiều tiềm năng có thể mở lại thị trường tại Nga
CôngThương - Thịt lợn nhập khẩu vào Nga với số lượng lớn, chủ yếu từ các nước Brazil, Đức và Đan mạch. Từ năm 2010, thịt lợn nhập khẩu từ EU và Canađa đã có sự gia tăng đáng kể, trong khi đó, nhập khẩu từ Mỹ lại giảm đi.
So với các nước phát triển, mức tiêu dùng thịt lợn bình quân đầu người tại Nga không cao, chỉ đạt 20,5 kg/năm, trong khi tại các nước phát triển thì con số này là 40-45kg/năm. Mục tiêu đến năm 2020 phải đạt sản lượng 3,96 triệu tấn thịt lợn với gần 40 triệu đầu lợn. Theo dự báo của Hiệp hội Thịt của Nga, đến năm 2014, mức tiêu thụ thịt lợn tại Nga là 26,5 kg và đến năm 2020 là 31,3 kg/năm. Tỷ trọng thịt lợn trong các loại thịt chiếm 40%.
Tại Nga, 90% người dân dùng thịt lợn. Trong giai đoạn từ 2005 đến 2010, giá thịt lợn tại Nga đã tăng 39% đối với lợn hơi và 46% đối với lợn móc hàm, tăng hơn rất nhiều so với các nước khác như: Italia, Tây Ban Nha, Ucraina, Hà Lan và Bỉ. Sự tăng trưởng về nhu cầu thịt lợn chế biến và sự biến động của giá cả theo hướng gia tăng trên thị trường nội địa cũng như trên thế giới đã buộc các tổ hợp chăn nuôi lợn của Nga phải tính đến việc thành lập các cơ sở mới, cũng như tái cơ cấu lại các tổ hợp hiện có cho phù hợp với xu thế chung trên thế giới. Năm 2010, ngành chăn nuôi lợn của Nga đã có 72 công trình mới và tái cấu trúc theo hướng hiện đại và dẫn đầu về đầu tư trong ngành chăn nuôi của Nga. Nhờ đó mà tốc độ tăng trưởng đầu lợn trong giai đoạn 2005 -2010 đạt khoảng 25%, từ 13,8 triệu đầu lợn lên 17,2 triệu. Tuy nhiên, thị trường thịt nội địa của Nga vẫn không có khả năng cạnh tranh vì hiệu quả kinh doanh kém, giá thành cao; ngoài ra, công nghệ chế biến còn quá lạc hậu so với tiêu chí của thế giới.
Hiện nay, Chính phủ Nga vẫn áp dụng chế độ hạn ngạch đối với nhập khẩu thịt lơn, thịt bò và thịt gia cầm. Ngoài ra, để bảo hộ ngành chăn nuôi trong nước, từ năm 2003, thuế suất thuế nhập khẩu đối với thịt nhập khẩu ngoài hạn ngạch được áp rất cao.
Liên bang Nga là thị trường không lạ đối với Việt Nam. Giai đoạn trước những năm 1990, khi hai nước còn áp dụng cơ chế clearing trong quan hệ thương mại, chúng ta đã giao sang Liên Xô hàng chục ngàn tấn lợn mảnh, lơn choai và thịt hộp và đây đã từng được xem là một trong những mặt hàng mũi nhọn của Việt Nam xuất sang thị trường này. Thời kỳ đó, tính vượt trội của thịt lợn của ta là nạc nhiều, mỡ ít. Từ sau những năm 1990, thịt lợn của ta giảm dần và cho đến bây giờ hầu như đã vắng bóng trên thị trường nước này. Nguyên nhân chính dẫn đến việc mất thị phần là do thịt lợn của ta đã mất đi những thuộc tính nêu trên, giá thành cao và trọng lượng lợn mảnh thấp, không đáp ứng đòi hỏi của công nghệ sản xuất của các cơ sở chế biến thịt lợn của Nga.
Hiện nay, Việt Nam có 9 cơ sở sản xuất và chế biến thịt lợn được phép xuất khẩu sang thị trường Nga. Trong đó có 2 đơn vị lớn là Vissan ở phía Nam và Vinalivesco ở phía Bắc. Đây cũng là hai tổng công ty trước đây đã từng có đại diện tại Liên bang Nga để làm công tác xúc tiến thương mại và theo dõi việc thực hiện các hợp đồng cung cấp thịt. Rất tiếc, do khủng hoảng tại Nga, đầu ra bị thu hẹp và kinh phí duy trì văn phòng đại diện bị cắt, nên các văn phòng này đã ngừng hoạt động.
Nếu không có gì thay đổi, trung tuần tháng 12, Nga sẽ trở thành thành viên thứ 154 của WTO. Theo đó, mọi cơ chế xuất, nhập khẩu của Nga sẽ phải điều chỉnh theo tiêu chí chung của sân chơi thương mại toàn cầu. Thịt lợn vào Nga, tuy vẫn còn chịu sự điều tiết bởi hạn ngạch, nhưng chắc chắn sẽ được nới lỏng hơn. Nếu có đầu tư đúng hướng về vật nuôi, công nghệ chế biến thì cơ hội tiếp cận và tiếp cận sâu vào thị trường thế giới nói chung và thị trường Nga nói riêng vẫn trong tầm với của các nhà chăn nuôi và chế biến thịt lợn ở Việt Nam.
Vẫn đề chính là sản phẩm thịt lợn xuất khẩu sang Nga phải đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng khắt khe.
Lã Văn Châu – Tùy viên thương mại tại Nga (E-mail từ Matxcơva)